Hơn hai
thế kỷ trôi qua, người Việt thời nay không còn nhuộm răng đen, để tóc dài,
nhưng tinh thần, ý nghĩa từ lời hịch bất hủ của Anh hùng dân tộc áo vải cờ đào
Quang Trung-Nguyễn Huệ về bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc vẫn còn giá trị.
Lịch sử Việt Nam ghi lại, sau
hơn 15 năm khởi nghĩa, quân Tây Sơn đã đánh đổ 3 tập đoàn phong kiến thống trị
là Nguyễn, Trịnh, Lê. Nước nhà được thống nhất từ Hà Tiên đến cả miền Bắc. Từ
lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, triều đình phong kiến Mãn Thanh đã cho Tôn Sĩ
Nghị đưa quân xâm lược vào chiếm đóng Thăng Long ngày 17/12/1788. Năm ngày sau
đó, ngày 22/12/1788 (tức ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân), được sự chấp thuận,
ủng hộ của hàng vạn tướng sĩ và cũng là làm sáng tỏ tính chính danh, chính
nghĩa đối với muôn dân, Nguyễn Huệ lập đàn ở phía nam núi Ngự Bình (Huế) làm lễ
trọng thể tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
Trước ba quân tướng sĩ, Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ tuyên thệ hùng hồn: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/
Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử
tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”.
Lời hịch trên được hiểu là: Quyết đánh kẻ thù
để giữ gìn, bảo tồn phong tục, tập quán của tổ tiên ông cha để lại, vẫn để được
tóc dài, vẫn nhuộm được răng đen. Đánh cho nó một chiếc xe để chạy về nước cũng
không có. Đánh cho nó một mảnh giáp cũng chẳng còn. Đánh cho lịch sử muôn đời
biết nước Nam anh hùng là có chủ.
Theo sử sách truyền lại, người Việt xưa có
phong tục nhuộm răng đen. Duy trì phong tục này, một mặt nhằm bảo đảm cho răng
được bền chắc, tránh bị sâu răng; mặt khác, cũng là một cách chống lại mưu đồ
đồng hóa của kẻ thù đối với nhân dân ta dưới thời kỳ đô hộ nghìn năm Bắc thuộc.
Phong tục nhuộm răng đen từng là một nét đẹp tao nhã, duyên dáng của người phụ
nữ Việt thuở trước. Vẻ đẹp đó được thể hiện qua bài ca dao “Mười thương” với
hai câu: “Ba thương má lúm đồng tiền/ Bốn thương răng
nhánh hạt huyền kém thua” (răng hạt huyền là răng đã được
nhuộm đen). Trong bài thơ nổi tiếng “Bên kia sông Đuống” của thi sĩ Hoàng Cầm
(sáng tác tháng 4/1948) cũng có những câu thơ rất đẹp, rất hay về hình ảnh
người phụ nữ vùng Kinh Bắc trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp: “Ai về bên kia sông Đuống/ Có nhớ từng khuôn
mặt búp sen/ Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng”.
Hiện nay, tuy phụ nữ Việt không duy trì phong tục nhuộm răng đen, nhưng chúng
ta vẫn bắt gặp nhiều bà lão ở độ tuổi 70 trở lên nơi vùng nông thôn Bắc Bộ vẫn
còn răng đen, nhai trầu đỏ môi. Đó là nét văn hóa xưa còn lưu lại trong xã hội
hiện đại.
Ngoài nhuộm
răng đen, người Việt cũng có phong tục để tóc dài. Theo các nhà nghiên cứu văn
hóa, việc để tóc dài của người Việt kéo dài từ khoảng thế kỷ 15 đến gần cuối
thế kỷ 18. Xưa kia, đàn bà để tóc dài thể hiện sự đoan trang, thùy mị. Còn đàn
ông để tóc dài thì cuốn thành búi trên đầu rồi để phía sau gáy cho gọn gàng.
Có thể khẳng định rằng, lời hịch của Hoàng đế
Quang Trung-Nguyễn Huệ thể hiện rõ ràng ở 3 khía cạnh: “Đánh cho để dài tóc/
Đánh cho để răng đen” nhằm mục tiêu bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; “Đánh cho
nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn” nhằm mục tiêu thắng
lợi về mặt quân sự; “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” nhằm đạt
mục tiêu chính trị là giành lại vị thế, khẳng định nước Nam đã có chủ.
Vì sao Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ lại đặt
mục tiêu giữ gìn phong tục, tập quán, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc lên trước
mục tiêu thắng lợi quân sự và mục tiêu giành lại vị thế chính trị của đất nước?
Vì “răng đen, tóc dài” không đơn thuần là những bộ phận trên cơ thể của người
Việt xưa, mà hơn thế, đó là hình ảnh thân thuộc của đồng bào ta qua bao đời, đó
cũng là phong tục, tập quán văn hóa của người Việt Nam tồn tại từ lâu. Lời hịch
thực chất là lời quyết chiến, quyết đánh đuổi quân xâm lược đến cùng để bảo
toàn những giá trị gốc gác của người Việt, của linh hồn văn hóa truyền thống
Việt.
Có thể khẳng định rằng, lời hịch của Hoàng đế
Quang Trung-Nguyễn Huệ góp phần thức tỉnh tâm can, lay động lòng người, vì thế
quy tụ, lôi cuốn được muôn dân đồng tâm hiệp lực thành sức mạnh phi thường để
đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789, làm nên trận
đại thắng Ngọc Hồi-Đống Đa lẫy lừng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ở hàm ý sâu
xa hơn, người anh hùng dân tộc áo vải cờ đào muốn gửi thông
điệp tới các thế hệ con cháu mai sau, những gì thuộc về giá trị bản
sắc văn hóa, phong tục, tập quán của tổ tiên, ông cha từ ngàn đời thì phải luôn
có trách nhiệm lưu giữ, bảo tồn để dân tộc Việt không bao giờ bị mất gốc hay
trở thành “bản sao” của dân tộc khác.
Hơn 230 năm trôi qua, tinh thần, ý nghĩa từ
lời hịch bất hủ của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ về bảo vệ bản sắc văn hóa
dân tộc vẫn còn giá trị. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, một trong những
thách thức lớn nhất mà các quốc gia-dân tộc phải đối mặt là dễ bị phai mờ, thậm
chí đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, chúng ta càng phải nhận thức thấu
đáo hơn nữa vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng về bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc, từ đó đề cao trách nhiệm và có những giải pháp căn cơ, đồng bộ để giữ gìn
bằng được những giá trị văn hóa mà ông cha ta đã bền bỉ xây dựng, sáng tạo, hun
đúc từ thời đại Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh. Những tinh hoa
văn hóa đó là hệ thống giá trị di sản vật thể, phi vật thể văn hóa và tất cả
những gì góp phần làm nên đặc trưng tính cách Việt, tâm hồn Việt, nhân cách
Việt từ thời mở nước đến nay.
Có câu danh ngôn, “Văn hóa là những gì còn
lại khi tất cả những cái khác mất đi”. Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong đó
lịch sử đấu tranh giữ nước chiếm phần lớn thời gian trong tiến trình dân tộc đã
cho chúng ta một chân lý: Nước có thể mất, nhà có thể tan, nhưng nhất định
không thể để mất tổ tiên, gia phả, dòng họ, không thể mất phong tục, tập quán
của ông cha để lại. Lịch sử Việt đã đúc kết rằng, sức sống bền bỉ, trường tồn,
mãnh liệt của dân tộc Việt chủ yếu bắt nguồn từ “sức mạnh mềm”, tức là từ văn
hóa, bản lĩnh, khí phách của con người Việt Nam.
Muốn giữ được quê cha đất tổ lâu dài, muốn cho
tổ tiên không bị mất gốc thì không bao giờ được phép lãng quên và làm “đứt gãy”
mạch nguồn văn hóa được người Việt vun trồng, bồi đắp, trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Bài học về sự kiên trì, ý chí kiên quyết bảo vệ các giá
trị văn hóa đã làm nên căn tính, cốt cách dân tộc cách nay cả ngàn năm chưa bao
giờ mất đi ý nghĩa của nó, mà vẫn còn sức sống mãnh liệt đến hôm nay và mai sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cái gốc
của văn hóa mới là dân tộc”. Gốc có vững, cây mới bền. Giữ được cái gốc dân tộc
của văn hóa, đó không chỉ là cơ sở vững vàng để bảo vệ thống nhất, độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, mà còn là thành trì chắc chắn để bảo vệ nền
văn hóa dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay./.
Nguồn:
BTGTW
Giữ được cái gốc dân tộc của văn hóa, đó không chỉ là cơ sở vững vàng để bảo vệ thống nhất, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, mà còn là thành trì chắc chắn để bảo vệ nền văn hóa dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Trả lờiXóaMuốn giữ được quê cha đất tổ lâu dài, muốn cho tổ tiên không bị mất gốc thì không bao giờ được phép lãng quên và làm “đứt gãy” mạch nguồn văn hóa được người Việt vun trồng, bồi đắp, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
XóaBài học về sự kiên trì, ý chí kiên quyết bảo vệ các giá trị văn hóa đã làm nên căn tính, cốt cách dân tộc cách nay cả ngàn năm chưa bao giờ mất đi ý nghĩa của nó, mà vẫn còn sức sống mãnh liệt đến hôm nay và mai sau.
XóaHơn hai thế kỷ trôi qua, người Việt thời nay không còn nhuộm răng đen, để tóc dài, nhưng tinh thần, ý nghĩa từ lời hịch bất hủ của Anh hùng dân tộc áo vải cờ đào Quang Trung-Nguyễn Huệ về bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc vẫn còn giá trị.
XóaTuy phụ nữ Việt không duy trì phong tục nhuộm răng đen, nhưng chúng ta vẫn bắt gặp nhiều bà lão ở độ tuổi 70 trở lên nơi vùng nông thôn Bắc Bộ vẫn còn răng đen, nhai trầu đỏ môi. Đó là nét văn hóa xưa còn lưu lại trong xã hội hiện đại.
Trả lờiXóaVăn hóa dân gian, văn hóa truyền thống do các cộng đồng dân tộc sáng tạo ra trong quá trình sinh tồn, phát triển là những yếu tố làm nên giá trị đặc sắc, tạo bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, văn hóa dân tộc là “mã định danh”, “thẻ căn cước” hay “bộ gen” của một dân tộc và là sự khẳng định bản sắc, giữ gìn cốt cách bền vững của dân tộc trong quá trình hội nhập với thế giới.
Trả lờiXóaQuyết đánh kẻ thù để giữ gìn, bảo tồn phong tục, tập quán của tổ tiên ông cha để lại, vẫn để được tóc dài, vẫn nhuộm được răng đen. Đánh cho nó một chiếc xe để chạy về nước cũng không có. Đánh cho nó một mảnh giáp cũng chẳng còn. Đánh cho lịch sử muôn đời biết nước Nam anh hùng là có chủ.
XóaVăn hóa là một lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, sự vững chắc của mỗi cộng đồng và rộng hơn là sự phát triển của mỗi quốc gia. Sẽ không thể có một sự phát triển nhanh và bền vững nếu không phát huy được nội lực của chính quốc gia đó. Mà nội lực quan trọng nhất của mỗi một quốc gia chính là con người, là những sáng tạo của con người quốc gia đó.
Trả lờiXóaNgày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa, hơn lúc nào hết chúng ta phải bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc - coi đó như là căn cước của chúng ta hội nhập và giao lưu quốc tế. Cần nhận thức rõ vai trò của văn hóa dân gian với tư cách là cội nguồn, bản sắc, là hệ giá trị và biểu tượng của văn hóa dân tộc.
Trả lờiXóaHơn 230 năm trôi qua, tinh thần, ý nghĩa từ lời hịch bất hủ của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ về bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc vẫn còn giá trị. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, một trong những thách thức lớn nhất mà các quốc gia-dân tộc phải đối mặt là dễ bị phai mờ, thậm chí đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Trả lờiXóa