|
"Đường lưỡi bò" phi pháp Trung Quốc tuyên bố chủ quyền |
Những
hoạt động trong vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam của nhóm
tàu Haiyang Dizhi 8 (Hải Dương Địa Chất 8, tàu thăm dò địa chất) của Trung Quốc
một lần nữa cho thấy mưu đồ “độc chiếm Biển Đông” và trở thành “cường quốc biển” trong tương lai gần của quốc gia này. Hành vi trên không những vi phạm
nghiêm trọng Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), xâm phạm
các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam tại khu vực phía nam Biển Đông mà còn cho thấy cách hành
xử bất chấp luật pháp, thể hiện rõ tham vọng to lớn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nói
về mưu đồ của Trung Quốc ở biển Đông có lẽ đã có rất nhiều bài viết, bài phân
tích, tuy nhiên những vấn đề được Nguyên Đại sứ
Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện
Biển Đông, Học viện
Ngoại giao Nguyễn Trường Giang chỉ ra mới đây có lẽ giúp người ta có cái
nhìn toàn diện hơn về mưu đồ chiến lược của Trung Quốc ở vùng biển giàu tiềm
năng này.
Theo
ông Nguyễn Trường Giang, Biển Đông được xác định là con đường sinh mệnh của nền
kinh tế Trung Quốc:
Thứ nhất,
lợi ích của
Biển Đông là về
vấn đề kinh tế,
đầu bảng
là tài
nguyên dầu khí, sau đó là băng
cháy. Khu vực
Đông
Nam Á có lượng
băng cháy cực lớn.
Đây
là nguồn
năng lượng của
tương lai, có thể sử
dụng trong nhiều thế
kỷ, theo tính toán sơ bộ
là khoảng
800 năm tới.
Việt Nam là một
trong những quốc
gia sở hữu
lượng băng
cháy tương đối lớn.
Chúng ta có khoảng 2.400 tỷ mét khối
băng cháy, là quốc
gia có thứ hạng
ở Châu Á
về loại
tài nguyên này. Đây là nguồn
năng lượng tuyệt
vời. Do đó,
Trung Quốc nhìn vào
nguồn băng
cháy như một
loại tài
nguyên thay thế cho dầu khí đang
dần trở
nên cạn kiệt.
Thứ hai, Biển Đông được xác định
là một
trong 4 khu vực
đánh
cá chủ yếu
của ngư
dân Trung Quốc.
Thứ ba, Biển Đông cũng được xác
định là
con đường sinh mệnh của
nền kinh tế Trung Quốc. Trong số 27 tuyến vận
tải của
Trung Quốc, 17 trong số đó nằm ở
Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối
Trung Quốc với
125 nước và
vận chuyển 3/4 lượng dầu
nhập khẩu
vào nước này.
Về an ninh quốc phòng, đây là một
bức trường thành
tự nhiên trên
biển. Biển
Đông
như một
vành đai
quân sự, phòng thủ,
là rào
cản an ninh để ngăn
chặn những
rủi ro và uy hiếp từ
bên ngoài.
Về mặt
địa chiến
lược, Trung Quốc xác định
Biển Đông như sân sau, nơi tập
dượt của
hải quân Trung Quốc
để tiến
ra thế giới
bên ngoài.
Biển Hoa Đông
ở phía đông Trung Quốc quá nông,
lại có một
đối thủ
khó nhằn là
Nhật Bản
án ngữ phía ngoài.
Còn đối với
Biển Đông, vùng biển này
rộng 3,4 triệu km2, độ sâu trung bình là
1.400 mét và có rất
nhiều rãnh sâu. Đây là địa điểm tuyệt
vời cho sự hoạt
động của
các loại tàu
ngầm.
Muốn thành
bá chủ toàn
cầu, Trung Quốc phải
trở thành
cường quốc
trên biển. Điều này
chỉ có thể
thực hiện
được ở
Biển Đông, vùng biển mà
xung quanh đó toàn các quốc
gia nhỏ bé. Về
mặt địa chiến
lược, đây là cửa
ngõ duy nhất, là
bàn đạp để
Trung Quốc đi
ra thế giới
bên ngoài. Do vậy, trong cái nhìn đại chiến
lược của
người Trung Quốc, Biển
Đông
có lợi ích sống
còn.
Chúng
ta có lẽ cũng đã biết rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của biển, quốc gia nào bá chủ
được biển trong thế kỷ này sẽ gần như sẽ bá chủ được thế giới. Có lẽ bởi vậy, mà
Trung Quốc đã và đang toan tính những bước đi để thực hiện giấc mộng bá chủ
biển và bá chủ thế giới trong thế kỷ này.
Tại
Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc mới đây đã đề ra mục tiêu là
phấn đấu đến
năm 2050 Trung Quốc sẽ vươn lên trở thành
siêu cường thế
giới ngang hàng với
Mỹ trên cơ
sở “cải
cách, mở cửa”
và “trỗi
dậy hòa bình”
(sau thời gian “dấu mình chờ thời”). Để thực hiện mục tiêu này, Trung Quốc đã
có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ cách đây rất lâu. Ngay từ đầu thế
kỷ XX, Trung Quốc bắt
đầu dòm ngó
và tranh chấp Biển
Đông,
bước đầu là
khu vực biển
đảo phía Bắc,
đến giữa
thế kỷ
hình thành yêu sách
trên toàn bộ
Biển Đông với các mốc
chủ yếu
sau: năm 1909 ra Hoàng Sa; năm 1946 vẽ yêu sách
"lưỡi bò" (chiếm
khoảng 80% diện tích Biển
Đông
nhưng chỉ
đến tháng 5/2009 mới
chính thức đưa ra yêu sách này)
đồng thời
ra chiếm nhóm phía
Đông
của quần
đảo Hoàng
Sa và đảo Ba Bình của
quần đảo Trường
Sa; năm 1956 Trung Quốc ra đóng
giữ phần
phía Đông
của Hoàng
Sa, Đài Loan tái chiếm giữ
đảo Ba Bình ở Trường Sa; năm
1958 Trung Quốc ra tuyên bố
chính thức yêu sách
chủ quyền
hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa; năm
1974 chiếm một
phần phía Tây
của quần
đảo Hoàng
Sa; năm 1988 đánh
chiếm một
số điểm trên quần
đảo Trường Sa; năm
1995 đánh
chiếm thêm Vành
Khăn, phía Nam quần đảo Trường
Sa.
Trung
Quốc yêu sách
chủ quyền
đối với
quần đảo Trường
Sa, coi quần
đảo Hoàng
Sa và vùng biển
kế cận
là thuộc
chủ quyền
lãnh thổ đương nhiên và
không thể tranh cãi của Trung Quốc; toàn
bộ quần
đảo Trường Sa (và
vùng biển kế
cận) nhưng
thừa nhận
có tranh chấp, chủ
trương “chủ quyền
Trung Quốc, gác tranh chấp,
cùng khai thác”.
Bên
cạnh đó, Trung Quốc
cũng tiến hành xây
dựng và
triển khai chiến lược biển
mới, đẩy mạnh
sự kiểm
soát và khai thác các vùng biển gần
và vươn ra các đại dương.
Năm 1995, Trung Quốc đưa ra "Chiến
lược khai thác biển" với mục
tiêu biến Trung Quốc trở
thành một
cường quốc
thế giới
về biển;
có khả năng
kiểm soát và
khống chế
đường biển,
khai thác tài nguyên biển. Trung Quốc cho rằng không thể
trở thành
cường quốc
toàn diện
nếu không phải
là cường quốc
biển. Về
khai thác tài nguyên, Trung Quốc chủ
trương "khai thác biển xa trước, biển
gần sau,biển có tranh chấp
trước, biển
thuộc chủ
quyền Trung Quốc sau", "ngoại giao đi trước, hải
quân đi sau", "văn công, vũ vệ";
phân hóa, chia rẽ ASEAN, tranh thủ và
hạn chế
Mỹ, Nhật.
Về phương thức
hợp tác, Trung Quốc
chủ trương lấy
song phương là
chính, đa phương khi Trung Quốc
giữ vai trò chủ đạo. Hướng
ra Biển Đông, nơi giàu
tài nguyên thiên nhiên, các nước lớn
không còn căn cứ
quân sự và
các nước nhỏ
liên quan đều yếu
về quân sự.
Để thực
hiện chiến
lược biển
của mình, trong nhiều
năm qua, Trung Quốc đã ráo riết triển
khai nhiều biện
pháp đối nội
và đối ngoại,
trên bàn đàm phán và
trên thực địa để
khẳng định chủ
quyền của
mình. Trung quốc chính thức
đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò”
vào tháng 5/2009 bằng
cách đính
kèm một bản
đồ vẽ
đường yêu sách
này kèm theo công hàm
gửi Liên Hợp
quốc phản
đối Báo cáo
của Việt
Nam và Báo cáo
chung Việt Nam- Malaysia về ranh giới thềm
lục địa được
vượt quá 200 hải
lý tính từ đường cơ
sở, theo đó
đòi
hỏi chủ
quyền 2 quần đảo gọi
là “Tây
Sa” (Hoàng Sa) và “Nam Sa” (Trường
Sa) và “vùng
đặc quyền
kinh tế" và "thềm lục
địa" riêng của 2 quần đảo này.
Trung Quốc vận
dụng quy chế quốc
gia quần đảo cho Hoàng
Sa, tuyên bố sẽ
vạch tiếp
cho Trường Sa, để từ
đó
đòi
2 quần đảo này
cũng có vùng "đặc quyền
kinh tế" và "thềm lục
địa" riêng, tạo bộ
mặt pháp lý
hợp thức
hơn cho yêu sách chủ quyền.
Thứ hai, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền về
chủ quyền
biển, giáo giục
ý thức “quốc
gia đại dương”, khẳng
định các yêu
sách chủ quyền
biển. Báo chí
Trung Quốc đăng tải
một cách có
hệ thống
các bài viết
kích động dư
luận, vu cáo các nước trong khu vực, đặc biệt
là Việt
Nam, chiếm đoạt tài
nguyên biển của
Trung Quốc.
Thứ 3, ráo riết
tiến hành
công tác xây dựng Pháp luật
về biển
để làm
cơ sở
pháp lý triển khai chiến lược biển.
Thứ 4, ra sức tăng
cường xây dựng
tiềm lực
quốc phòng, đặc
biệt là
không quân và hải
quân (tàu sân bay, tàu
ngầm, tàu
khu trục tên lửa,
máy bay SU 27, SU 30, tiếp dầu
trên không, tổ chức
tập trận
hải quân).
Thứ 5, củng
cố và
mở rộng
các vị trí đã chiếm đóng trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Thứ 6, thực hiện
chính sách vừa lôi kéo
vừa chia rẽ các nước
ASEAN, dùng nước này
ép nước kia; hạn chế
vai trò và ảnh
hưởng của
các nước lớn
khác như Mỹ,
Nhật; tập
trung sức mạnh
mũi nhọn
sức ép vào
Việt Nam, cho Việt Nam là đối tượng
chính, áp dụng thủ
thuật "ngoại giao cấp cao", "đại cục
quan hệ", "trả đũa mạnh"
để hạn
chế đấu tranh của
Việt Nam.
Thứ 7, thúc ép mạnh mẽ
các nước trong khu vực thực
hiện chủ
trương “Gác tranh chấp, cùng khai thác”
(…).
Có
thể thấy, mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là bá chủ Biển Đông nhằm thực hiện
giấc mơ Trung Hoa đưa Trung Quốc trở thành cường quốc số một thế giới. Bởi vậy,
từ nay cho đến khi nào thực hiện được giấc mộng này, Trung Quốc vẫn sẽ luôn tìm
mọi cách để gây hấn, bắt nạt và đưa ra những tuyên bố phi lý về chủ quyền của
mình đối với vùng biển này. Do đó, hơn lúc nào hết chúng ta phải nâng cao cảnh
giác, kịp thời phát hiện và vạch mặt, ngăn chặn kịp thời những âm mưu thâm độc
của Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền của mình đối với chủ
quyền biển đảo thiêng liêng của dân tộc.
Việt
Nguyễn
âm mưu của trung quốc thì đã quá rõ ràng và chúng sẽ không từ bỏ âm mưu đó , sống gần một nước lớn và đầy tham vọng như Trung Quốc ta cần phải khôn khéo trong các biện pháp ứng xử , " cứng rắn về nguyên tắc , mềm dẻo về sách lược " để đem lại cho nước ta những thuận lợi nhất ngoại giao , đồng thời kêu gọi sự ủng hộ quốc tế để lên án hành vi vi phạm của Trung Quốc .
Trả lờiXóa