Home » Archives for tháng 4 2022
Thời
gian gần đây, Phạm Minh Vũ có lẽ là cái tên nổi bật trong giới rận chủ khi mà
đám đàn anh, đàn chị của Vũ đã nhập kho hoặc được xuất khẩu ra nước ngoài.
Thông quan facebook cá nhân, Vũ đã đăng tải nhiều bài viết có nội dung xấu độc,
thể hiện sự nguy hiểm của mình trong các hoạt động tuyên truyền chống Đảng, Nhà
nước.
Tuy
nhiên, theo dõi các bài viết của Phạm Minh Vũ rõ ràng cho thấy anh ta chẳng qua
là một kẻ “ăn theo nói leo”, “lưu mạnh giả danh tri thức” chứ chẳng có trình độ
gì. Do vậy, bản thân y không được giới “dân chủ giả hiệu” đánh giá cao như các
cây bút khác như Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Văn Đài... Điều này
cũng dễ hiểu khi quá khứ đã nói lên tất cả về trình độ của một sinh viên lười
biếng đến nỗi bị đuổi học.
Chẳng
hạn, mới đây, liên quan đến câu chuyện về người anh hùng Thái Ngô Hiếu, thuộc lực lượng PCCC ở
Đồng Nai đã xả thân cứu 4 người đuối nước, giúp cho 4 nạn nhân thoát khỏi
lưỡi hái tử thần. Vậy nhưng, qua lăng kính méo mó của một kẻ “đạo đức giả”,
Phạm Minh Vũ đã “bẻ lái” câu chuyện sang một hướng tiêu cực khi cố tình “tát
bùn sang ao” để bôi nhọ, nói xấu Ngành Công an, chia rẽ mối quan hệ khăng khít
giữa lực lượng công an với nhân dân.
Hơn nữa, Phạm Minh Vũ cũng thuộc dạng người “chủ nghĩa cơ
hội”, hễ phát hiện được sự việc nào đó nhạy cảm, thu hút sự quan tâm của dư
luận là y nhanh chóng cho “ra lò” các bài viết xuyên tạc ngay. Đáng chú ý, các
bài viết của Vũ cũng rất đa dạng, rải khắp các sự việc trong xã hội.
Điển hình như gần đây, từ một thông tin chưa kiểm chứng được
chia sẻ trên mạng xã hội về trường hợp một người phụ nữ lớn tuổi người dân tộc
Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai làm nghề vác xi măng. Phạm Minh Vũ đã
nhanh chóng bồi bút xuyên tạc, lợi dụng tình thương người của cộng đồng mạng
trước hình ảnh lam lũ của người phụ nữ, Vũ đã sụt sùi cùng những “giọt nước mắt
cá sấu” để cho bài viết của mình thu hút được sự quan tâm, chú ý của dư luận.
Nhưng khác với những người bình thường, mục đích của Phạm
Minh Vũ khi chia sẻ bài viết đó không phải là để kêu gọi sự giúp đỡ cho người
phụ nữ trong câu chuyện theo cách mà người đã đưa tin từ trước đó, mà y chỉ muốn
xoáy sâu vào những cảnh đời éo le để “bẻ lái”, quay sang nói xấu chế độ, nói
xấu chính quyền các cấp và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về vấn đề an
sinh xã hội.
Trong khi đó, đã có biết bao dự án hỗ trợ vốn, giúp đỡ cho
đồng bào vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn thể hiện chính sách nhất quán
của Đảng, Nhà nước nhằm xóa đói giảm nghèo, thực hiện quyền bình đẳng giữa đồng
bào các dân tộc, nhưng Phạm Minh Vũ luôn phớt lờ mà chỉ săm soi vào những cảnh
đời éo le rồi quy chụp, cào bằng cho cả xã hội. Rõ ràng, từng câu, từng chữ mà
đối tượng này viết ra chẳng có chút tình người và cũng chẳng thể hiện sự thông
thái. Điều này cho thấy rõ Vũ chỉ giữ vai trò của một “con tốt” trong các chiến
dịch tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Là một người đã từng học chuyên ngành truyền thông, có lẽ đây
là thế mạnh của y khi cũng rất biết cách giật tít, đưa các thông tin thu hút sự
chú ý của dư luận. Đặc biệt, được sự hỗ trợ đắc lực của các thành viên tổ chức
khủng bố Việt Tân, các bài viết của y nhận được nhiều sự chia sẻ trên trang
fanpage của tổ chức này. Nhưng có lẽ vấn đề nào cũng mang tính hai mặt, khi
xuất khẩu càng nhiều bài viết như vậy cũng tức là Vũ sẽ có càng nhiều tiền,
thành tích chống phá của y sẽ ngày một dầy thêm và tất nhiên nó cũng sẽ tỷ lệ
thuận với hành vi phạm tội do chính y đã gây ra.
Ngọc Lan
Mã
Phi Long
Theo
chia sẻ của Hoàng Đức Nguyên, em trai đối tượng Hoàng Đức Bình được biết, đã tròn một năm Hoàng Bình đã
không nhận bất kỳ đồ ăn thực phẩm hay bất kỳ đồ dùng nào của trại, anh ta chỉ
nhận bưu phẩm của gia đình gửi vào mỗi tháng hai lần, và mỗi tháng đối tượng Bình
còn được mua đồ tại căn tin của trại giam không quá 1,5 triệu đồng tiền lưu ký
gia đình gửi vào.
Sau một năm “TUYỆT THỰC”
kiểu dân chủ phương Tây, Hoàng Đức Bình vẫn kiên quyết không nhận bất kỳ đồ
dùng nào của trại. Và thật vi diệu và đáng nể phục khi được biết sức khỏe anh ta
vẫn tạm ổn, thỉnh thoảng chỉ đau xoang và đau lưng do nằm nhiều trên bục bê
tông nhà tù, ngoài ra trong trại anh ta có trồng thêm các loại rau để ăn thêm
cho đảm bảo sức khỏe. Một cuộc sống lành mạnh và thú vị thật. Ở trong trại mà
cứ như ở khu nghỉ dưỡng, có khu trồng rau để cải thiện bữa ăn. Mà anh ta ăn rau
sống hay sao chứ phạm nhân làm gì có bếp riêng để nấu nướng.
Lý giải về việc không nhận
đồ ăn của trại là để lên án chế độ cộng sản cũng như phán đổi cái bán án oan
sai, bất công và vô nhân đạo này và anh ta cũng không quên kêu gọi các bạn tù
của anh ở các trại giam trên khắp cả nước cũng hướng ửng việc này.
Đúng là hành động đầy ấu
trí của anh Hoàng Đức Bình. Nhưng nếu để ý có lẽ chúng ta sẽ thấy nội dung của
bài viết của Hoàng Đức Nguyên có vẻ khá quen thuộc. Dường như anh Nguyên đã
coppy nguyên bản nội dung bài viết trước để chia sẻ cho lần gặp này. Bởi vì,
suốt hơn 1 năm vừa qua, do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 nên các trại giam
hạn chế tối đa việc các thân nhân phạm nhân đến thăm, gặp và gửi đồ và cho các
phạm nhân để tránh việc lây lan dịch bệnh từ bên ngoài vào trại giam.
Vậy thì không thể nào
Hoàng Đức Bình đã “TUYỆT THỰC” (không dùng đồ của trại) gần 1 năm nay được khi
không thể thường xuyên nhận đồ tiếp tế và tiền của gia đình gửi vào. Vậy mà sức
khỏe vẫn đảm bảo thì anh ta đúng là có hồng phúc lớn rồi.
Và nếu như câu chuyện
trên có thật thì Hoàng Đức Bình chẳng đúng là phá gia tri tử. Theo như chia sẻ
của em trai đối tượng thì mỗi tháng, nguyên tiền mặt gửi vào là 1,5 triệu để
mua đồ căn tin và số tiền phải chi để nấu nướng đồ ăn mà gia đình tiếp tế cũng
rơi vào khoảng 3,5 triệu nữa. Như vậy trung bình mỗi tháng gia đình phải chi khoảng
5 triệu đồng để thăm nuôi anh Bình, theo đó 1 năm gia đình tiêu tốn khoảng 60
triệu đồng. Đây là một số tiền không hề nhỏ với hoàn cảnh của gia đình có thu
nhập trung bình. Nếu đúng thế thì quả thực Hoàng Đức Bình có thú chơi sang
chảnh đúng chất “công tử” rồi.
Không những thế, anh ta còn
kêu gọi các bạn tù hưởng ứng theo “cách chơi trội” của mình. Với những người có
hoàn cảnh kinh tế không vững, mà năm nào cũng chi với số tiền như vậy thì chắc
bán nhà đi chẳng đủ nuôi mấy ông phạm nhân. Cho nên, mong gia đình đối tượng
đừng ba hoa chích chèo nữa, không ăn cơm trại chỉ có chết đói mà thôi.
Mã
Phi Long
Các lần vào Việt Nam cho thấy diện
đối tượng tiếp xúc của USCIRF khá rộng, tuy nhiên USCIRF ưu tiên gặp gỡ số chức
sắc, nhà tu hành và số tín đồ có thái độ chính trị xấu, mang nặng tư tưởng tôn
giáo cực đoan, ít nhiều cũng đã từng có hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm đến
an ninh trật tự. Trong đó, chủ yếu là các thành viên trong tổ chức “Hội đồng
liên tôn” như: N.V.L, L.N.T, Đ.H.T (Công
giáo); T.K.T, T.V.P (Phật giáo); N.H.Q (Tin Lành); L.Q.H, L.V.L, T.H. (Phật
giáo Hòa Hảo), H.P (Cao Đài)...
Mặc dù đã được các cơ quan chức năng cảnh báo việc tiếp xúc với các đối tượng
trên có thể gây nguy
hiểm đến sự an toàn của họ, nhưng đoàn USCIRF luôn thể hiện
thái độ kiên quyết được tiếp xúc các đối tượng hoặc những nơi mà ta khuyến cáo
không nên đến hoặc tiếp xúc. Điều đó
chứng tỏ rõ ràng mục đích lợi dụng vấn đề “tôn giáo” để chống phá Việt Nam của
các TLTĐ. Hơn
nữa, các lần gặp gỡ số
chức sắc, nhà tu hành trên, đoàn
USCIRF đã công khai bày tỏ quan điểm sẵn sàng tài trợ bất hợp pháp cho số này
hoạt động trở thành “ngọn cờ” chống đối trong tôn giáo, thậm chí là khuyến khích họ hoạt
động độc lập, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. Ngược lại, được sự khích lệ, hứa hẹn bảo trợ sau mỗi
lần tiếp xúc với đoàn USCIRF, các đối tượng chống đối cực đoan trong tôn giáo
càng gia tăng các hoạt động lấn lướt, thách thức chính quyền và vi phạm pháp luật;
tích cực cung cấp thông tin, tài liệu vu cáo, xuyên tạc tình hình “tự do tôn
giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” cho để hoạt động chống Việt Nam.
Mối
quan hệ cộng sinh này đã làm sáng tỏ ý đồ móc nối, hậu thuẫn, mua chuộc số chức
sắc, nhà tu hành cực đoan trong các tôn giáo USCIRF ở Việt Nam nhằm thu thập,
kiểm chứng các thông tin về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, những sơ hở, thiếu
sót của ta trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở các địa phương. Một đặc
điểm chung là tất cả những thông tin, tài liệu phản ánh về các nội dung trên đều
đã bị thổi phồng, bóp méo nhằm xuyên tạc, bôi nhọ bức tranh tôn giáo ở Việt Nam,
vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”. Đồng thời,
USCIRF còn tài trợ, hậu thuẫn cho các tổ chức tôn giáo thiếu thiện chí với Việt
Nam ở nước ngoài như “Uỷ ban Tự do tôn giáo cho Việt Nam”; “Mạng lưới nhân quyền
Việt Nam”… để soạn thảo các bản “phúc
trình”, lập hồ sơ “những nạn nhân bị đàn áp tôn giáo”, vận động tổ chức các “diễn
đàn” tạo cơ hội cho số chống đối cực đoan trong và ngoài nước lên tiếng tố cáo
Việt Nam vi phạm “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” trên diễn đàn quốc tế.
Như vậy, từ những dẫn chứng trên cho thấy hoạt động lợi
dụng vấn đề “tự do tôn giáo” gắn với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống Việt
Nam của USCIRF có tính chất nguy hiểm cao, nhất là đã tác động
tiêu cực đến nhận thức của chức sắc, tín đồ tôn giáo theo xu hướng chia rẽ, ly khai,
gây mâu thuẫn, xung đột giữa chính quyền với các tôn giáo
làm mất ổn
định xã hội; đây chính là cái cớ để các
TLTĐ với Việt Nam can thiệp, lật đổ, thực hiện ý đồ ép buộc ta phải phụ thuộc vào Mỹ và
các nước đồng minh.
Với mục
tiêu không thay đổi, trong thời gian tới, lợi dụng xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội
nhập quốc tế, các thế lực thù địch và số
đối tượng chống đối sẽ tiếp tục lợi dụng vấn đề “tôn giáo” gắn với dân chủ, nhân
quyền với
nhiều hình thức, thủ đoạn mới để chống phá cách mạng Việt
Nam với nhiều thủ đoạn tinh vi, khó lường trước, cần hết sức quan tâm, không
thể xem thường. Do đó, việc nhận diện sơ bộ về hoạt động của USCIRF sẽ
góp phần nâng cao cảnh giác trong phòng ngừa, ngăn chặn mọi ý đồ xấu từ việc
lợi dụng vấn đề “tôn giáo” gây phương hại đến sự phát triển và hội nhập của Việt
Nam.
Mã
Phi Long
Từ khi được thành lập cho đến nay, USCIRF
đã nhiều lần cử các đoàn lâm thời vào Việt Nam. Mặc dù, đoàn USCIRF luôn đặt vấn
đề: “Không phải vào Việt Nam để phê
phán, khuyến khích tự do tôn giáo kiểu Mỹ mà là để tìm hiểu tình hình sát thực
tế, báo cáo Tổng thống và Quốc hội Mỹ, thúc đẩy tự do tôn giáo và quyền cơ bản
của con người”. Tuy nhiên, trong các chuyến thăm Việt Nam, đoàn USCIRF đều
đặt vấn đề thẳng với ta: “Vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam vẫn còn nhiều điểm
chưa đạt theo các Công ước quốc tế”; “Vấn đề tự do tôn giáo
tại Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn trong quan hệ Việt – Mỹ”, “Nhân quyền là trọng
tâm quan hệ Việt – Mỹ” … Trong các cuộc làm việc với Chính phủ và các
ban ngành, chức năng của Việt Nam, đoàn USCIRF còn ngang nhiên đưa ra những đề
nghị thiếu thiện chí, gây căng thẳng trong đối thoại, trao đổi về tình hình tôn
giáo như việc: đề
nghị Việt Nam phải công nhận quyền được “tự do bày tỏ ý kiến” của các cá nhân,
tổ chức tôn giáo; phải đẩy nhanh tiến độ đăng ký sinh hoạt cho các điểm, nhóm
Tin Lành tại khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc.
Đáng
chú ý, liên tục trong nhiều năm, USCIRF đều gây sức ép với ta đòi thả tự do cho
số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo có hoạt động vi phạm pháp
luật đang thi hành án phạt tù mà họ cho là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo” như: Hồ Đức Hòa, Lê Quốc
Quân, Trần Thị Nga, Lê Đình Lượng,
Nguyễn Năng Tĩnh… Như vậy, từ hoạt động của đoàn USCIRF tại Việt
Nam trong những năm qua cho thấy rõ ràng USCIRF là công cụ để Mỹ và các thế lực
thù địch tiến hành các hoạt động chống phá nước ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền”, “tự do tôn giáo”, công khai can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội
bộ của Việt Nam, lấy vấn đề “tự do tôn giáo” để gây sức ép, để mặc cả, đánh đổi
vấn đề chính trị với lợi ích kinh tế.
Trên
cơ sở những thông tin, nhận định sai lệch của USCIRF về tình hình tự do tôn
giáo tại Việt Nam, trong các phiên điều trần “về tự do tôn giáo” trước Quốc hội
Hoa Kỳ, số cực hữu trong chính giới Mỹ, EU thường xuyên ra điều kiện, yêu cầu
Việt Nam cải thiện “tình trạng vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo” với
những dẫn chứng thiếu khách quan khi cho rằng: “tình hình vi phạm tự do tôn
giáo ở Việt Nam tiếp tục có khuynh hướng tiêu cực”; cán bộ “sách nhiễu, đánh đập,
bắt giữ, truy tố, theo dõi, cấm đi lại đối với những người theo các nhóm tôn
giáo không được Nhà nước cho đăng ký”; “trong năm 2018, chính quyềm tiếp tục
đàn áp trên diện rộng các lãnh đạo tôn giáo, các nhà bảo vệ nhân quyền, các nhà
hoạt động ôn hòa và những người chỉ trích khác trên toàn quốc, đặc biệt là để
đáp trả lại những cuộc phản đối diện rộng chống lại Luật An ninh mạng mới hà khắc
và dự luật về đặc khu kinh tế”…
Đáng
chú ý, theo thông lệ hàng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều đưa ra 2 bản báo cáo: “Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới” và “Báo
cáo về tự do tôn giáo quốc tế”. Hai báo cáo này tuy gọi là về “tình hình thế giới”
nhưng Hoa Kỳ tập trung chỉ trích vào những nhà nước do các Đảng Cộng sản lãnh đạo,
cầm quyền, trong đó có Việt Nam. Năm 2004, Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách
CPC, năm 2006 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ rút tên Việt Nam khỏi danh sách CPC... Tuy
nhiên, sau đó, hầu hết các báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều cho thấy sự “lươn lẹo” khi một mặt thừa nhận “Việt Nam có một số tiến bộ nhất định
trong việc cho phép người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng...”, nhưng mặt
khác họ vẫn kêu gọi chính phủ Mỹ đưa Việt
Nam trở lại danh
sách CPC.
Mã Phi Long
Đọc bài viết của facebooker Nguyễn Quốc
Hưng được chia sẻ trên mạng xã hội mới ppng này đúng là ng.u sử hết chỗ nói.
Trong bài viết “ĐAU VÀ NHỤC”, ông Quốc Hưng nhấn mạnh: “Người Ukraine sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ
độc lập. Họ được cả thế giới kính trọng. Còn người Việt Nam?”.
Bài viết cho thấy sự ngu học của ông Hưng
Thật khó tin khi một người Việt Nam, có học thức
đầy đủ như ông Hưng mà lại cho ra những phát ngôn lôm côm, hàm hồ như vậy. Ông này
khả năng cũng là “nạn nhân” của lối đào tạo mà môn “lịch sử” không được đưa vào
nội dung giảng dạy chăng?
Lịch sử dựng nước và đánh đuổi quân xâm lược
các triều đại phong kiến của Trung Quốc cho đến cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ và chiến tranh biên giới năm 1979 đã ghi đậm dấu ấn về ý trí kiên
cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt là 3 cuộc chiến tranh vệ quốc chống
Pháp, chống Mỹ, chống Tàu đã cho thấy tinh thần quyết tử cho tổ quyết sinh của
quân, dân Việt Nam. Vậy mà nay, một người ở cái tuổi ngũ tuần rồi nhưng lại đặt
dấu hỏi về sự hy sinh về bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam thì chỉ những người
vô ơn, mù tịt về lịch sử và yêu nước giả tạo mới hỏi nhưng câu như vậy.
Còn nhớ khi bắt đầu chiến dịch phản kháng trước
sức ép quân sự từ phía Nga, chính binh lính của Ukraine còn khắc lên hai từ “Việt
Nam” trước các căn cứ quân sự để kích thích tinh thần cho binh lính, học theo tấm
gương của Việt Nam trong sự hy sinh cao cả để bảo vệ đất nước.
Thế mà ông Nguyễn Quốc Hưng lại bày trò, đặt
câu hỏi ngớ ngẩn về chủ đề này. Không những vậy, ông này còn hiến kế và khiêu
khích Việt Nam cần phải cứng rắn hơn với Trung Quốc về vấn đề biển Đông.
Xin thưa với ông Hưng, không ai phải dạy khôn
Việt Nam về điều này, nhất là với những thành phần tự nhục, vô ơn như ông. Việt
Nam đâu có làm ngơ trước việc xâm chiếm biển đảo của Trung Quốc, nhưng cách Việt
Nam lựa chọn cho cuộc đấu tranh đòi lại biển đảo quê hương không phải bằng súng
đạn mà là đấu tranh ngoại giao trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Bởi vì chúng ta quá thấu hiểu được những hệ lụy
từ chiến tranh gây ra và không người lãnh đạo nào lại muốn dân tộc mình lại phải
chìm đắm vào cảnh bom rơi đạn lạc tàn phá đất nước và tổn thất về người và của.
Cho nên, nếu ông cảm thấy nhục và đau khi ngẫm
về cách ứng xử của Việt Nam hiện tại trong việc bảo vệ biên giới, biển đảo thì
mời ông hãy xung phong ra cùng với các chiến sĩ bộ đội biên phòng, ngày đêm giữ
yên bờ cõi để biết rõ về giá trị của hòa bình và sự vất vả của các chiến sĩ như
nào. Còn ngồi gõ bàn phím mà ngẫm “nhục” với “đau” thì tốt nhất là tự sướng một
mình, đừng thể hiện tính “tự nhục” đó trên mạng xã hội, rồi lại để dư luận cười
vào mặt vì “đã dốt còn hay rỏ ra nguy hiểm”.
Mã Phi Long
Mới đây, Việt Tân chia sẻ bài viết với
tiêu đề “ĐẢNG CSVN GIA TĂNG ỦNG HỘ NGA
LÀ PHẢN DÂN HẠI NƯỚC”. Trong bài viết, kền kền Việt Tân ngáo ngơ cố tình
xuyên tạc rằng: “Nhà cầm quyền Việt Nam liên tục bỏ phiếu trắng đối với 2 nghị
quyết lên án và yêu cầu Nga rút quân khỏi Ukraine. Nghị quyết thứ 3 mà Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc thông qua là khai trừ tư cách thành viên của Nga trong Hội
đồng Nhân quyền, lần này Việt Nam bỏ phiếu chống để khẳng định sự ủng hộ đối với
chế độ Putin và công khai chọn đứng về phía kẻ xâm lược”...
Đến giờ này mà kền kền Việt Tân vẫn còn cay cú
các lá phiếu của Việt Nam tại Hội đồng Liên hợp quốc. Từ khi đó đến nay nhiều lần
Việt Tân cố tình “tát bùn sang ao”, bẻ lái vấn đề nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa
Việt Nam và Nga cũng như với Ukraine.
Trong khi đó, thể hiện trước bạn
bè quốc tế về lập trường nhất quán của Việt Nam, chúng ta khẳng định rằng, với Việt Nam, cả Nga và Ukraine đều là
những người bạn truyền thống, nên chắc chắn chúng ta rất không vui trước tình
hình xung đột, chiến sự hiện nay. Khi các bên xung đột này đều là bạn bè, đối
tác, vậy ta phải lựa chọn cách ứng xử như thế nào cho phù hợp? Một câu hỏi được
đặt ra là trong cuộc xung đột này ai đúng, ai sai và liệu cuộc xung đột này sẽ
đi về đâu?
Rõ ràng, Việt Nam đã thể hiện rất rõ thái độ ủng hộ giải
pháp hòa bình, kêu gọi các bên kiềm chế, ngồi vào bàn đối thoại đàm phán, tuân
thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc
biệt là nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc
gia, không can thiệp công việc nội bộ, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế.
Những quan điểm này được bàn bè quốc tế tán dương, ủng
hộ cao khi chúng ta đã đứng trên lập trường của những quốc gia yêu hòa bình và
tôn trọng luật pháp quốc tế. Thế nhưng, một thực tế cho thấy, khi Việt Nam chứng
tỏ được uy tín và dành được niềm tin từ bạn bè quốc tế, thì những đối tượng thù
địch luôn tìm mọi cách phủ nhận, phớt lờ và không quên “bới lông tìm vết” đề
châm chọc, bôi nhọ hoặc tìm cách hạ thấp uy tín của Việt Nam.
Hiện tại cũng vậy, khi cuộc xung đột giữa Nga và
Ukraine vẫn đang tiếp diễn với tính chất khốc liệt hơn khi Mỹ và Phương Tây gia
tăng hậu thuẫn cả vật chất lẫn vũ khí hạng nặng cho Ukraine. Chính điều đó đã
kéo theo hệ lụy về những tổn thất, thương vong về cả người và cơ sở hạ tầng.
Trước những diễn biến căng thẳng đó, Việt Nam tiếp tục kêu gọi các bên ngừng bắn
và tôn trọng chủ quyền lãnh thổ và giải quyết cuộc chiến tranh này bằng con đường
hòa bình, đối thoại.
Quan điểm này được ngài Đại sứ của Việt Nam tại LHQ khẳng
định một các rõ ràng và theo đó, rõ ràng đường lối ngoại của Việt Nam đã cho thấy chúng ta không bao giờ ủng hộ chiến tranh mà ngược lại còn kêu gọi chấm dứt chiến
tranh. Không những thế, liên quan đến cuộc chiến tranh này, Việt Nam cũng khẳng định “chỉ chọn lẽ
phải không chọn phe”, chính vì vậy, lập trường quan điểm của Việt Nam chỉ lên
án chủ nghĩa phát xít, thù địch với chế độ Cộng sản và những tội ác mà những
người theo đường lối tân phát xít gây ra cho người dân và cộng đồng. Do đó,
Việt Tân hay thôi ngay trò “tát bùn sang ao” để bôi nhọ uy tín của Việt Nam
cũng như chia rẽ tinh thần quốc tế trong sáng của Việt Nam.
Mã Phi
Long
Mới
đây, từ câu chuyện một người phụ nữ dân tộc Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai bốc vác những bao xi măng lớn kiếm 30.000 đồng/tấn mưu sinh đang sục sôi
trên các diễn đàn mạng xã hội. Hình ảnh người phụ nữ lớn tuổi mặc áo mưa rách
tả tơi, chân trần lam lũ mưu sinh đã chạm vào cảm xúc của nhiều người.
Ngay
sau khi câu chuyện trên được chia sẻ rộng rãi trên mạng Internet, kền kền Phạm
Minh Vũ đã biết khai thác sự hấp dẫn của sự việc để bồi bút xuyên tạc nhằm bôi
nhọ chế độ và các vị lãnh đạo chính quyền các cấp. Với giọng điệu nỉ non, cùng
giọt nước mắt cá sấu, kết hợp với thông tin chưa được kiểm chứng, nên bài viết
của Phạm Minh Vũ nhanh chóng được cộng đồng mạng tiếp nhận, chia sẻ, lan
truyền.
Liên
quan đến sự việc, thông tin từ một tờ báo mạng cũng giật tít với nhưng keyword
như "cụ bà" và chính điều đó khiến cho sự việc được lan truyền một
cách nhanh chóng trên mạng xã hội.
Đây là
cách làm báo của những người không có tâm, kiểu chộp giật. Vì chính những bài
báo như vậy sẽ tạo cơ hội cho những con kền kền như Phạm Minh Vũ lợi dụng để
đục khoét, nói xấu, bôi nhọ chế độ.
Cho
nên, sẽ thật tai hại nếu như những thông tin độc hại mà anh ta đưa vào bài viết
tác động đến nhận thức của người đọc, nhất là với những người nhẹ dạ cả tin, bị
Vũ dắt mũi theo chiều hướng tiêu cực, thậm chí tạo lăng kính méo mó, cực đoan
về xã hội Việt Nam.
Việc
người phụ nữ trong clip là hoàn toàn có thật, nhưng sự thật thì không như miệng
lưỡi diều hâu chia sẻ. Theo thông tin từ nguồn chính thống, bà Ly Đơ De (SN
1960) người dân tộc Hà Nhì, sống tại thôn Tả Gì Thàng, xã Y Tý, huyện Bát Xát
(Lào Cai). Gia đình bà có 5 người con đều đã trưởng thành, đi làm và có thu
nhập. Hoàn cảnh gia đình bà De cũng không thuộc diện khó khăn về kinh tế.
Bên
cạnh ngôi nhà nấm truyền thống của đồng bào Hà Nhì, gia đình bà Ly Đơ De đang
xây dựng ngôi nhà 3 tầng khang trang, kiên cố. Hiện căn nhà mới đổ xong mái
tầng 2, đang hoàn thiện lên tầng tiếp theo. Bên trong cũng đầy đủ đồ dùng hiện
đại.
Công
việc hàng ngày của bà De là trông nhà, nuôi gà vịt và lo cơm nước... Trong lúc
rảnh rỗi bà làm thêm công việc bốc vác xi măng, chứ không phải là lao động
chính, kiếm sống nuôi gia đình.
Không
chỉ riêng bà De, 2 người phụ nữ khác cũng tạo thành nhóm để bốc vác xi măng cho
hộ kinh doanh trên. Cả hai cũng đều có gia cảnh bình thường, không có trường
hợp nào quá khó khăn hay thuộc diện hộ nghèo. Được biết, những người phụ nữ dân
tộc Hà Nhì có vóc dáng và thể lực tốt, nên họ không ngần ngại làm những công
việc tưởng như chỉ giới đàn ông mới dám làm.
Vậy
nên, qua câu chuyện này, liên quan các bài viết của kền kền Phạm Minh Vũ, chúng
ta cần cảnh giác, vì một nửa sự thật không giống như những gì anh ta viết ra.
Những sản phảm trên mạng xã hội của Vũ đều theo dạng “mượn gió bẻ măng”, “tát
bùn sang ao” để bôi nhọ chế độ, xã hội. Vậy nên, chia sẻ nhưng thông tin như
vậy rất có thể chúng ta vô tình tiếp tay cho cái sai, cái xấu
Mã Phi
Long
Mới
đây, trong bộ sách giáo khoa cho học sinh tiểu học có bài viết ca ngợi về phẩm
chất của ông Trương Vĩnh Ký gây nhiều tranh cãi. Đáng chú ý, liên quan đến vấn
đề trên, sau khi mạng xã hội chia sẻ bức
ảnh về hành động của người cha khi viết vào sách của con mình với nội dung lên
án, phê phán hành động “rước voi về dày mả tổ” của ông Trương Vĩnh Ký lại càng
khiến dân tình xôn xao, đúng thời điểm Bộ GD&ĐT đưa ra thông báo về việc
học môn lịch sử đối với học sinh lớp 10 và THPT.
Qua
câu chuyện này, một lần nữa chủ đề lịch sử lại bùng lên mạnh mẽ như vậy. Từ câu
chuyện trên cho đến việc xem môn lịch sử là môn tự chọn, đã khiến cho dư luận
phản ứng quyết liệt về cách ứng xử với môn lịch sử. Bởi vì, nếu chúng ta thờ ở
trước sử, coi sử không quan trọng bằng những thứ có thể tạo ra công ăn việc
làm, tiền của... Đề rồi giá trị nhận thức về lịch sử càng ngày càng lu mờ. Cuối
cùng tạo ra 1 thế hệ mù mờ về sử, chủ nghĩa xét lại bùng lên khiến chúng ta
không thể phân biệt được từ đó lại đào tạo ra một thế hệ thần tượng các nhân
vật trong lịch sử nhưng lại là những người theo "chủ nghĩa bán nước".
Và
câu chuyện liên quan đến ông Trương Vĩnh Ký là một vấn đề nhạy cảm, liên quan
đến chủ để trên. Để có hiện tượng này, chúng ta cần quay ngược lại dòng thời
gian, năm 2015, việc ông Trương Vĩnh Ký được một Quỹ văn hóa tôn vinh “nhân vật
kiệt xuất có công đối với văn hóa Việt Nam” khiến nhiều người ngạc nhiên. Sau
đó lại xuất hiện một bài viết khẳng định Trương Vĩnh Ký là “người thầy, nhà văn
hóa lớn của dân tộc”! Vậy người được tôn vinh này là ai?
Đó
là người vào tháng 3-1859, hơn một tháng sau khi Pháp chiếm thành Gia Định,
trước cảnh nước mất nhà tan, phong trào chống thực dân lan rộng khắp cả nước
lại có hành động khó hiểu là viết thư gửi người Pháp để cầu cứu: “Xin đừng chần
chừ nữa, xin mở rộng bàn tay giải phóng của Ngài để chấm dứt những nỗi cơ cực
của dân tộc chúng tôi” (Vũ Ngự Chiêu trích dịch Thư của Petrus Key); rồi tinh
thần “không chần chừ” ấy được biểu hiện cụ thể bằng việc xăng xái làm thông
ngôn cho người Pháp; và đảm nhiệm luôn cả việc làm “tay trong” cho người Pháp
như đã thể hiện trong thư Trương Vĩnh Ký gửi cho P.Bert (P.Be): “Tôi cũng đang
lo tiếp xúc để cung cấp cho ngài những tin tức chính trị hữu ích. Tôi hết lòng
tán đồng dự án hoàn mỹ của ông Pène (Pen) về công cuộc bình định thi hành bởi
những yếu nhân bản xứ và, ở đây, tôi đang bám sát nhà vua cùng Viện cơ mật. Như
sứ giả tiên khu của Chúa, tôi tìm cách dọn đường cho ngài” (thư ngày 10-5-1886); “Tôi sẽ
trấn áp tất cả các hãnh thần và bao vây nhà vua, tôi sẽ kiếm những người thật
sự có khả năng cho Viện cơ mật” (thư ngày 17-6-1886)…
Vậy
nhưng, để đánh giá công lao Trương Vĩnh Ký, một số người chỉ căn cứ vào số tác
phẩm của ông ta để kết luận đó là “người đi tiên phong trong việc chuẩn bị cho
sự nghiệp duy tân”, “tác phẩm đa dạng như thế có tác dụng xã hội lớn lao. Nó
giúp cho đồng bào ta vượt qua vòng kiềm tỏa u minh của lối sống phong bế, mở
mang sự hiểu biết thiên nhiên, hiểu biết con người” mà không xét tới mục đích
xuất bản các tác phẩm này.
Hơn
nữa, họ lấy gì chứng minh các cuốn sách ấy đã giúp người Việt đương thời “vượt
qua vòng kiềm tỏa u minh của lối sống phong bế, mở mang sự hiểu biết thiên
nhiên, hiểu biết con người”?
Chẳng
lẽ họ không biết chính Trương Vĩnh Ký đã nói rất rõ trong thư gửi “Các vị trong
ban duyệt xét bản thảo” rằng: “Người Pháp với tư cách là chủ, cần biết tiếng An
Nam để giảng dạy người An Nam là học trò những tư tưởng và khái niệm cần thiết
cho việc cải tạo và phục sinh của người An Nam”; thậm chí còn không ngần ngại
tự nhận mình là “người bề tôi tận tâm và vâng lời”, khẳng định “lòng tôi luôn
luôn thuộc về nước Pháp, và những công việc phục vụ nhỏ mọn của tôi cũng thuộc
về nước Pháp” (trích thư ngày 3-9-1868 gửi Giám đốc Nội trị để xin từ chức).
Rõ
ràng rất nhiều việc làm của Trương Vĩnh Ký chỉ là nhằm phụng sự quyền lợi của
nước Pháp, không nhằm phụng sự đất nước đã sinh ra ông ta, tức là đâu có yêu
dân tộc mình tới mức phải được ca ngợi, vậy vinh danh ông là “người thầy, nhà
văn hóa lớn của dân tộc” chẳng phải là sự xúc phạm với người Việt chân chính
hay sao?
Ghi nhận tên tuổi một số nhân vật lịch sử qua việc đặt
tên một số trường học, công viên, đường phố là thể hiện tính nhân văn của
truyền thống dân tộc. Nhưng không vì thế mà đánh đồng “công” và “tội”, người
yêu nước và kẻ phản quốc, bởi điều đó là thiếu tôn trọng sự thật lịch sử và
khiến nhận thức của thế hệ sau bị tác động tiêu cực, dẫn tới nhận thức lệch
lạc, ngộ nhận.
Mã Phi Long
Ở Việt Nam, tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, luôn thu
hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Do đó, cùng với vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề
“tôn giáo” để tạo sự chống phá đa diện nhằm vào Đảng và chế độ ta. Âm mưu biến
tôn giáo thành “ngòi nổ” gây mất ổn định chính trị - xã hội hoặc thông qua vỏ
bọc tôn giáo để tuyên truyền luận điệu xuyên tạc kích động, phá hoại tư tưởng
gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chiêu bài “tôn giáo” là một phần của chiến lược “diễn biến hoà
bình” mà Mỹ và các nước đồng minh phải phụ thuộc vào Mỹ đã sử dụng rất thành
công để kích động xu hướng chia rẽ, ly khai, gây mất ổn định xã hội, từ đó phát
triển thành các cuộc bạo loạn chính trị ở một số quốc gia trên thế giới. Và đó
sẽ là cái cớ chính đáng để họ công khai vén bức màn của vở kịch can thiệp, lật
đổ, thực hiện ý đồ chèn ép các nước có chế độ chính trị hoặc lựa chọn con đường
phát triển khác với Mỹ và một số nước đồng minh, trong đó có cả Việt Nam.
Tuy nhiên,
điều đó là chưa đủ để đạt được mục đích chống phá cách mạng Việt Nam. Cho nên,
nhiều năm qua, song song với việc lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” gắn với
“tự do tôn giáo” để gây sức ép về mặt ngoại giao với Việt Nam, các thế lực thù
địch còn tiến hành các hoạt động gây dựng lực lượng chống đối ở trong nước thực
hiện cái gọi là “nội công, ngoại kích”, tạo thế “gọng kìm” để chống phá đa diện
nhằm vào Đảng và Nhà nước ta.
Đáng chú ý, trong giai đoạn hiện nay, ngoài
những hoạt động chống phá mang tính quy luật, thì một trong những thủ đoạn thâm
hiểm mà các thế lực thù địch và số chống đối cực đoan trong nước tiến hành đó
là tìm mọi cách để lợi dụng vấn đề tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số nhằm phá
hoại an ninh quốc gia; kích động tư tưởng ly khai trên các địa bàn chiến lược.
Ở các khu vực trọng
yếu của đất nước như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, chúng lợi dụng
vấn đề dân tộc gắn với vấn đề tôn giáo để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi,
xúi giục người dân di cư tự do, biểu tình, bạo loạn gây mất ổn định chính trị
nhằm tạo cớ can thiệp, phá hoại độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam.
Nổi lên thời gian qua có thể liệt kê các sự
việc trong điểm xảy ra trên địa bàn Tây Bắc, trong đó tập trung ở các tỉnh như
Điện Biên, Lai Châu. Dưới sự chỉ đạo của các thế lực thù địch, các đối tượng
chống đối ráo riết thực hiện mưu đồ lập ra tôn giáo riêng của đồng bào dân tộc
tại chỗ như đạo Vàng Chứ để qua đó, lôi kéo, tập hợp lực lượng thành lập cái
gọi là “Vương quốc Mông tự trị”.
Ở một số địa phương, trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc, các phần tử xấu còn lợi dụng các hiện
tượng tôn giáo mới, tà đạo như “Zê Sùa”, “Bà cô Dợ”, “Hội thánh Đức Chúa Trời”,
“Sề Chu Hà Ly Cha” và một số hiện tượng tôn giáo mới liên quan đến thờ cúng Chủ
tịch Hồ Chí Minh,... để tiến hành các hoạt động gây phương hại đến an ninh trật
tự. Những vấn đề nêu trên dù chưa gây ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia
nhưng đã và đang tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã
hội trong khu vực, tạo thành những điểm nóng tôn giáo.
Hay như ở vùng Tây Nguyên trước đây, chúng
đòi thành lập đạo Tin lành Đề-ga của đồng bào dân tộc bản địa để mưu đồ lập ra
cái gọi là “Nhà nước Đề-ga độc lập”. Tương tự, ở Tây Nam bộ, nơi có đông đồng
bào Khmer sinh sống, chúng cùng dựng lên “Nhà nước Khmer Krôm” với luận điệu vu
khống Nhà nước ta đàn áp sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ. Đây là thủ
đoạn rất nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, phá hoại an ninh quốc gia, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Rõ ràng, qua phân tích trên,
có thể thấy chiêu bài của các thế lực
thù địch là tìm cách biến giáo trở thành một lực lượng đối lập với chế độ xã
hội chủ nghĩa, tách các tôn giáo khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong mọi sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Bên
cạnh đó, với mục tiêu chống phá không thay đổi, trong thời gian tới, các thế lực thù địch, phần
tử xấu trong tôn giáo vẫn sẽ tiếp tục tái diễn các chiêu trò lợi dụng vấn đề liên
quan đến “tôn giáo” với nhiều thủ đoạn mới mẻ, tinh vi để tiếp tục hoạt động
chống phá cách mạng Việt Nam. Do đó, mọi chức sắc, tín đồ tôn giáo nói
riêng và mỗi người dân Việt Nam nói chung hãy luôn nêu cao tinh thần cảnh giác,
chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, góp phần làm cho
tôn giáo trở nên thuần khiết, tốt đẹp như bản chất vốn có.
Mã Phi
Long
Nhằm
thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm lật đổ chế độ XHCN, thể chế
chính trị ở Việt Nam, các TLTĐ đã và đang triển khai một cách toàn diện các
hoạt động chống phá trên tất cả các lĩnh vực, các cấp độ. Trên lĩnh vực tôn
giáo, chiến lược “Diễn biến hòa bình” được cụ thể hóa thành nhiều nội dung cụ
thể. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng của Việt Nam
như hiện nay, các TLTĐ và số chống đối trong tôn giáo tăng cường đẩy mạnh các
hoạt động lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” gắn với vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền” chống Việt Nam. Đây được coi là khâu đột phá khẩu, một mũi tên thường
trực và xuyên suốt vào vấn đề an ninh chính trị của Việt Nam.
Xét
trên phương diện lý luận và thực tiễn, tôn giáo là một vấn đề lớn đối với các
quốc gia, nhưng cũng hết sức nhạy cảm. Bởi nó liên quan đến đời sống tâm linh,
thế giới quan, ý thức xã hội của nhiều nhóm người khác nhau và có quan hệ chặt
chẽ với chính trị - pháp lý trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó có thể
bị chính trị hóa và dễ bị các thế lực lợi dụng, biến thành công cụ đấu tranh
chống đối nhau trong chính sách đối nội và đối ngoại của các quốc gia.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và có chính sách bảo đảm phát triển tự do, công
bằng, bình đẳng đối với các tôn giáo. Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đều
khẳng định: Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong suốt quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta. Trong từng thời kỳ của cách
mạng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, các chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước đã cơ bản đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân
dân; các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bảo vệ và phát triển.
Tính đến tháng 9/2019, Việt Nam có 25,1 triệu tín đồ,
chiếm 27% dân số, 55.710 chức sắc, 145.721 chức việc. Việc ra đời các tổ chức
tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện
nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, từ bức tranh toàn cảnh về tôn giáo Việt
Nam cho thấy một diện mạo mới mẻ và đẹp đẽ, bằng chứng là ngày nhiều nhà thờ Công giáo
được tu sửa, xây mới, các hoạt động tôn giáo lớn được tổ chức tại Sở
Kiện (Hà Nam), La Vang (Quảng Trị),... thu hút hàng vạn tín đồ
tham dự và luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ
từ phía chính quyền; bên cạnh đó, hàng chục triệu tín đồ Phật giáo
luôn đồng hành cùng dân tộc, hàng triệu tín đồ nhiều tôn giáo khác vẫn sống
“tốt đời, đẹp đạo”, góp phần xây dựng, phát triển đất nước; cũng như việc Liên Hợp
quốc chọn
Việt Nam làm địa điểm để tổ chức thành công Đại lễ Phật đản LHQ trong các năm
2008, 2014, 2019...
Từ thực tế đó có thể khẳng
định Việt Nam không phân biệt giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo hay không;
không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ
nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận. Thế nhưng, các thế lực thù địch, số đối tượng chống đối trong tôn giáo lại cố tình phớt lờ, ra sức phủ nhận các thành
tựu về tôn giáo, cùng với vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, họ đã và đang lợi dụng
vấn đề “tôn giáo” để tạo sự chống phá đa diện nhằm vào Đảng và chế độ ta, thậm
chí còn xuyên tạc, vu cáo Nhà nước ta “bóp nghẹt” tôn giáo, hòng bôi nhọ bức
tranh tôn giáo ở Việt Nam. Bằng chứng là liên tục nhiều năm nay, công bố báo
cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ đều nhận xét sai lệch, phiến diện về tình
hình tự do tôn giáo của Việt Nam nói riêng, của nhiều nước trên thế giới nói chung và chủ yếu dựa trên các thông tin sai lệch đã
bị thổi phồng, bóp méo sự thật từ báo cáo của Uỷ ban Tự do tôn giáo
quốc tế Mỹ (USCIRF) cung cấp.
Uỷ
ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ là tổ chức hoạt động độc lập với chính phủ Mỹ,
thành lập trên cơ sở “Đạo luật Tự do tín ngưỡng quốc tế - HR.2431” và do Tổng
thống Mỹ ký, ban hành ngày 27/10/1998. Cơ cấu
tổ chức của USCIRF gồm 10 thành viên được bổ nhiệm bởi Tổng thống Mỹ và lãnh đạo
của hai đảng Cộng Hòa và đảng Dân Chủ trong lưỡng viện Mỹ. USCIRF có nhiệm vụ
theo dõi, giám sát vấn đề tự do tôn giáo quốc tế và có quyền triệu tập các buổi
điều trần, soạn thảo bản phúc trình hàng năm về tình hình tôn giáo quốc tế cho
Tổng thống và Quốc hội Mỹ, đồng thời cũng có quyền lập danh sách các nước trong
diện “Cần được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC)” đề nghị Bộ Ngoại giao
Mỹ quyết định.