Mã Phi Long
Tất cả báo chí khi thông
tin về trận chiến này đa số là do đài địch phát ra, chúng cố ý tô đậm những chi
tiết được coi là “bảo vệ chủ quyền” của những binh lính VNCH tham gia cuộc
chiến để đánh lừa dư luận, để rêu rao ca ngợi và để “vinh danh chiến sĩ quốc
gia oai hùng”; thực chất đó chỉ là chiêu bài của “Cục chiến tranh tâm lý ngụy”.
Ông Lê Văn Thự (người tham gia “trận hải chiến” có viết: “Tiếp đến HQ-10 báo
cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời
đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có
thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10
tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra
trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị
thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay
trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng
bằng, không nghiêng một chút nào cả.”.
Trong bài viết của mình, ông Lê Văn Thự nói rõ ràng mặc dù 4 tàu của VNCH lúc đó được đặt dưới sự chỉ huy của ông Ngạc, tuy nhiên, từ khi xảy ra “giao tranh” cho đến khi kết thúc trận chiến, ông Thự không nhận được bất kỳ một lệnh nào của ông Ngạc, đồng thời, trong tường thuật của ông cũng thể hiện chỉ có HQ-10 và HQ-16 (Phân đội II) độc lập tác chiến, không có sự hỗ trợ của Phân đội HQ-4 và HQ-5 (Phân đội I); thậm chí HQ-4, HQ-5 còn “bắn nhầm” vào hai tàu HQ-16 và HQ - 10.
Bên cạnh đó, trong bài
viết của mình, ông Thự còn khẳng định : “Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một
mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được
tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và
HQ-5”. Như vậy vai trò của HQ-4 và HQ-5 trong trận chiến này là gì ?
Ngụy quân với số lượng
tàu và vũ khí áp đảo (các tàu HQ-5, HQ-10, HQ-16 đều có vũ khí mạnh hơn 3 tàu
của Trung Quốc, tàu HQ-4 các súng đều sử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh,
radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao). Nhưng HQ-4 lại không tham chiến, HQ-5
thì lại bắn vào HQ-16, bên cạnh đó, ông Thự có đặt ra giả thuyết là hạm trưởng
HQ-10 có thể bị trúng đạn do HQ-5 bắn vào. Như vậy, với khoảng cách khá giữa
các tàu tham chiến lý do nào HQ-5 lại “bắn lạc” vào quân ta .
Một vấn đề cần nghi vấn
khác là sau khi trận chiến xảy ra, HQ-4 và HQ-5 chạy sang Phillipines chứ không
quay trở ngược lại Việt Nam. Chỉ có HQ-16 của ông Thự trở về với “thương tích
đầy mình”. Phải chăng việc chạy sang Phillipines với lý do “sửa chữa tàu” nhằm
mục đích che dấu việc HQ-4 và HQ-5 không bị một vết đạn nào như lời ông Thự
nêu?
Phải chăng, việc đưa hai
phân đoàn ra thực hiện nhiệm vụ nhằm một mục đích khác ? Những người trong Bộ
tư lệnh Hải quân VNCH và Đại tá Ngạc hoàn toàn biết kết quả của trận chiến,
thậm chí, sẵn sàng hi sinh HQ-10 và HQ-16 với một mục tiêu nào đó ? Trong bài
“Biển Đông dậy sóng” ông Trần Bình Nam có viết : “Đại tá Ngạc biết có một cái
gì đó sau lưng trận đánh nên ông đã dè dặt trong đôi lời trước khi viết rằng
ông chỉ “tường thuật trung thực những chi tiết theo khía cạnh của một người chỉ
huy chiến thuật”.
Với những vấn đề nêu ở
trên, có thể nhận thấy trận chiến khu vực Hoàng Sa ngày 19/1/1974 nằm ở một góc
độ sắp xếp có chủ ý của phía VNCH. Theo đó, sau khi bị “ông chủ” Hoa Kỳ buộc
phải nhường quần đảo cho Trung Quốc. VNCH đã rút dần khỏi các đảo đang chiếm đóng.
Để mị dân, phía VNCH chỉ
đạo 4 tàu chiến tham gia, trong đó, có 2 tàu sẽ là “tốt thí”; hai tàu còn lại
cũng tham chiến nhưng thực chất là tiêu diệt chính đồng đội của mình để ngụy
tạo chứng cứ, chứng minh thái độ “ yêu nước” qua việc “lên án Trung Quốc xâm
lược Hoàng Sa” bằng tư liệu của bộ máy tâm lý chiến của VNCH che dấu sự yếu
kém, bất lực của quân đội VNCH , che dấu việc bán nước, bán đảo theo lệnh chủ.
Với vở kịch “khổ nhục kế”
mà Mỹ, Ngụy tạo ra. Chấp nhận thí mạng của 74 người trên 2 tàu HQ - 10 và HQ -
16 ngày 19/01/1974, thực chất Mỹ - Ngụy đã hai tay dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc
mà nguyên nhân chính là sự thỏa hiệp giữa người Mỹ và Trung Quốc; Thiệu và đám
bù nhìn ngụy Sài gòn muốn chiều ý Mỹ và để níu kéo hy vọng giữ miền Nam Việt
Nam nên đã can tâm, nhắm mắt dàn dựng vở kịch bi hài “Hải chiến Hoàng Sa”. Với
bản chất ô nhục muôn thủa của mình nên bây giờ chúng trâng tráo, không biết sĩ
nhục mà còn đòi “vinh danh”. Thực ra bọn chống Cộng cực đoan ở hải ngoại nó
chẳng yêu thương gì đến những người đã bị “quân ta bắn chết quân mình” năm 1974
đó đâu; có chăng chúng chỉ dựng lên để phục vụ cho mục đích đen tối của nó là
kích động người dân dưới chiêu bài “phò Mỹ bài Trung” mà lâu nay chúng đang
diễn đó thôi.
(Bài viết có tham khảo thông tin từ các nguồn chính thống)
Có chăng chúng chỉ dựng lên để phục vụ cho mục đích đen tối của nó là kích động người dân dưới chiêu bài “phò Mỹ bài Trung” mà lâu nay chúng đang diễn đó thôi chứ làm gì có chuyện chúng tiếc thương cái gì.
Trả lờiXóaVới những vấn đề nêu ở trên, có thể nhận thấy trận chiến khu vực Hoàng Sa ngày 19/1/1974 nằm ở một góc độ sắp xếp có chủ ý của phía VNCH. Theo đó, sau khi bị “ông chủ” Hoa Kỳ buộc phải nhường quần đảo cho Trung Quốc. VNCH đã rút dần khỏi các đảo đang chiếm đóng.
XóaTôi nghĩ chuyện này không đơn giản như thế được, có khi lại là chiêu trò có sắp xếp của phía VNCH thật đó. Chứ cái mục đích đen tối của chúng trước đến nay ai cũng biết rồi, làm gì có việc chúng thương tiếc cái gì cơ chứ.
XóaVới bản chất ô nhục muôn thủa của mình nên bây giờ chúng trâng tráo, không biết sĩ nhục mà còn đòi “vinh danh”. Thực ra bọn chống Cộng cực đoan ở hải ngoại nó chẳng yêu thương gì đến những người đã bị “quân ta bắn chết quân mình” năm 1974 đó đâu
XóaGần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ cuộc chiến bi hùng ấy, chúng ta cùng nhìn lại lịch sử để hiểu thêm dã tâm xâm lược của cường quốc láng giềng, để thấy sự bất khuất của những người con đất Việt, và để củng cố bằng chứng và niềm tin rằng, Hoàng Sa mãi mãi là một phần của đất mẹ Việt Nam.
Trả lờiXóaHoàng Sa, Trường Sa mãi mãi là một phần của đất mẹ Việt Nam, chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ Hoàng Sa và Trường Sa. Luôn luôn như vậy, chúng ta quyết không để Hoàng Sa và Trường Sa rơi vào tay của bọn chúng.
Xóa