…… (tiếp p1)
Công văn năm 1958 do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
Còn theo Thiếu
tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an đã phân
tích: “Công thư không thể có giá trị pháp lý bằng Hiệp định Geneve”. Công thư của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thật ra là một bức công điện. Mục đích của nó không
liên quan đến việc xác định chủ quyền. Nên nhớ vào năm 1958, tiềm lực quốc
phòng của Mỹ ở thế áp đảo, gấp 10 lần tiềm lực quốc phòng của Trung Quốc. Tàu
chiến của Mỹ suốt ngày hành trình ở bờ biển Phúc Kiến (Đài Loan), thậm chí chĩa
pháo vào Trung Quốc. Khi Mỹ ép buộc Trung Quốc thì Việt Nam khi đó là đồng minh
của Trung Quốc. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng do đó chuyển tải thông
điệp là 25 triệu người Việt Nam đứng bên cạnh 650 triệu người Trung Quốc. Đó là
tinh thần thực chất.
Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an
Thứ hai, điều 4
Hiệp định Geneve 1954 quy định Việt Nam Cộng hòa quản lý vùng biển đảo phía nam
vĩ tuyến 17, tức bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là văn bản
pháp lý quan trọng nhất và duy nhất trong thế kỷ 20 khẳng định Hoàng Sa, Trường
Sa là của Việt Nam. Phải đặt một công thư bên cạnh một hiệp định quốc tế thì
chúng ta sẽ thấy rõ hiệu lực pháp lý của chúng thế nào. Có thể so sánh thế này:
công thư tương đương như một văn bản cấp xã, Hiệp định Geneve thì như một văn bản
của Thủ tướng chính phủ. Điều đó có nghĩa là chỉ có Hiệp định Geneve mới có thể
phủ định công thư. Do vậy, giá trị pháp lý của công thư ở mức rất thấp so với
Hiệp định Geneve.
Công thư 1958
không hề đề cập vấn đề chủ quyền lãnh thổ
Ông Trần Duy Hải
- Phó Chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia - đã từng lên tiếng về công thư năm 1958
của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng như sau: “Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý về những vấn đề được nêu trong nội
dung, đó là Việt Nam tôn trọng 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Công thư không
đề cập chủ quyền lãnh thổ, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không
có giá trị pháp lý trong vấn đề chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa. Thứ hai, giá trị
công thư cũng phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi cho Trung Quốc trong
bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa
theo Hiệp định Genève 1954 mà Trung Quốc có tham gia. Do đó, tôi xin nói logic
thông thường là bạn không thể cho người khác cái gì khi bạn chưa có được (cái
đó)”.
Ông Trần Duy Hải - Phó Chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia
Về vấn đề này,
chúng ta cần nhận thức rõ ràng rằng: trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá
chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch
sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch
nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề
này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng
hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những
hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng
khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình
áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình
không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".
Vậy đến đây,
chúng ta đã có thể khẳng định rằng không bao giờ có chuyện một vị lãnh đạo ưu
tú, yêu nước như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng – người học trò xuất sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh lại làm ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong
khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự
do.
Còn
nếu cần lên án việc biển đảo quê hương bị “AI” bán đứng cho
Tàu khựa và bán như thế nào thì hãy lấy các dẫn chứng về hành động hèn nhát của phía
quân đội VNCH thuộc chính quyền bù nhìn ngụy quyền Sài Gòn. Chính họ là những nhu nhược, nối giáo cho giặc, để đế quốc Mỹ thao túng, chỉ đạo để TQ xâm chiếm
đảo trong các sự kiện liên quan đến các mốc thời gian như năm từ 1956 đến 1974,
trong đó nhục nhã nhất là sự kiện “hải chiến Hoàng Sa năm 1974”.
Qua đây, rõ ràng
cho thấy, những kẻ ngụy quân tử như đám rận chủ, phản động ở trong và ngoài nước,
số báo lá cải như BBC, RFA, VOA… cũng chỉ là con kền kền nhặt xác thối khi lợi
dụng vấn đề biển Đông để vu vạ, nói xấu Việt Nam, hạ uy tín các vị lãnh đạo Đảng,
Nhà nước qua các thời kỳ. Thủ đoạn của chúng rất tinh vi, xảo quyệt, được tạo dựng bởi vỏ bọc là những người “yêu nước” nhưng bản chất là những kẻ tay sai chống
phá Việt Nam. Như phân tích ở trên, rõ ràng chúng chỉ tập trung công kích các vị lãnh
đạo Cộng sản, xuyên tạc, bóp méo lịch sử nhằm đánh lừa công chúng, tác động tâm lý tiêu cực dần làm mất niềm
tin của quần chúng vào vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng, và tất nhiên, với bản chất thù địch với Cộng sản, sẽ không bao giờ thấy các đối tượng đả động đến một
câu từ nào về sự hèn yếu của lực lượng hải quân “giấy” thuộc chính quyền tay sai VNCH khi họ ngậm bộ hòn cam chịu để Mỹ bắt tay với TQ xâm chiếm biển đảo
Việt Nam.
(Bài
viết có sự tham khảo dữ liệu từ các nguồn chính thống của Chính Phủ).
Mã Phi Long
Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên chúng ta có những bằng chứng về quyền lãnh thổ của mình lại được sự ủng hộ của các quốc gia tiên bộ, quyết giữ đất đến cùng!
Trả lờiXóakhông bao giờ có chuyện một vị lãnh đạo ưu tú, yêu nước như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại làm ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do
Trả lờiXóa